Văn Lâm
Thanh Xuân Hà Nội
VỀ BÀI THƠ HƠN 1000 NĂM TUỔI.
Đó là bài thơ Đỗ thuyền trên bến Vân Kiều của Trương Kế khoảng năm 756 đời vua Đường Túc Tông. Trương
Kế tự là Ý Tôn, thi đậu tiến sĩ và làm quan tới chức Tư bộ viên ngoại lang. Có
tài thơ văn và nổi tiếng đương thời.
Một lần đi thuyền tới bến song Vân Kiều, Phong cảnh buồn vắng thấm
vào ông, ông ngâm hai câu thơ:
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên
Giang
phong ngư hỏa đối sầu miên
(Quạ kêu trong đêm thanh vắng, trăng lặn, sương giăng mờ mịt.
Gió trên sông thổi ngọn đèn chài heo hắt, nỗi buồn mênh mang dâng
trào)
Sau đó Trương Kế không làm tiếp đước. Ngồi trên thuyền suy tư, ý thơ
trăn trở trong ông.
Trong khi đó trong chùa Hàn Sơn có thày trò sư cụ dạo quanh hồ nơi
sân chùa. Trăng thanh gió mát thức tỉnh tâm hồn bậc văn nhân. Sư cụ ngâm hai
câu:
Sơ
tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán
tợ ngân câu bán tợ cung
(Mồng ba mồng bốn trăng chưa tròn, còn chư định dạng. Một nửa going
chiếc lưỡi câu bằng bạc, nửa lại giống cánh cung bằng bạc).
Tới đó sư cụ cũng bí vận, không làm tiếp được. Song chú tiểu theo
hầu cũng là người giỏi văn chương liền ứng khẩu tiếp hai câu:
Nhất
phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán
trầm thủy để, bán huyền không.
Giống như chiếc bình ngọc chia hai nửa. Một nửa chìm nơi đáy nước,
nửa quăng lên trời. Hai thày trò sư cụ đã hoàn thành bài thơ “Vọng sơ nguyệt”
(ngắm trăng non)
Sơ
tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán
tợ ngân câu bán tợ cung
Nhất
phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán
trầm thủy để bán huyền không
Dịch thơ : Mồng ba mồng bốn trăng non
Nửa như câu bạc, nửa giống
cánh cung
Ngọc bình một chiếc chia
hai
Nửa chìm trong nước nửa cài
lên không.
Sư cụ rất phấn chấn, đọc đi đọc lại càng thấy hay bèn sai chú tiểu
lên gác chuông thỉnh một hồi đại hồng chung để cúng đường Tam Bảo. Tiếng chuông
ngân nga trong đêm vắng càng khơi gợi suy tư trong tâm hồn người. Đang trăn trở
ý thơ trong đêm khuya buồn vắng trên sông, nghe hồi chuông, Trương Kế sực tỉnh
và nối tiếp dòng thơ ban đầu. Ông ngâm tiếp hai câu:
Cô
Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền.
(Ngoài thành Cô Tô, chùa Hàn Sơn, Tiếng chuông khuya lay động tâm
hồn khách trên thuyền.
Vậy là Trương Kế đã hoàn thành bài thơ, bài thơ góp phần làm nên tên
tuổi ông hơn một ngàn năm qua, cho tới tận ngày nay.
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên
Giang
phong ngư hỏa đối sầu mien
Cô
Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền
Tản Đà dịch bài thơ này như sau:
Đỗ thuyền trên bến Phong
Kiều
Trăng
tà tiếng quạ kêu sương
Lửa
chài câu bến sầu vương giấc hồ
Thuyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hà San…
Cụ Tản Đà dịch rất hay, tuy nhiên có nhiều các bậc tiền nhân khác
cũng dịch bài thơ này, mỗi người mỗi vẻ. Nhân đây Văn Lâm cũng xin mạn phép quý
vị được dịch bài thơ này:
Quạ
kêu trăng lặn sương dày
Lửa
chài sông gió vơi đầy sầu dâng…
Cô
Tô bến đỗ bang khuâng
Hà
San chùa điểm chuông ngân đêm trường…
VỀ
BÀI THƠ KỶ HỢI TUẾ
Phần chữ Hán. Phiên âm
Trạch quốc giang sơn nhập
chiến đồ
Sinh nhân hà kế lạc tiều tô
Bằng quân mạc thoại phong hầu
sự
Nhất tướng công thành vạn cốt
khô
Trong nhiều thư
tịch cổ ghi bài thơ này của Tào Tung đời Hán. Thực tế không phải đời Hán mà là
đời Đường, thời Đường Chiêu Tông. Ông đỗ tiến sĩ và được bổ làm quan hiệu thư
lang. Chiêu Tông khi ấy mới bình xong nội loạn. Kỷ Hợi tuế chỉ năm 879, năm thứ
6 niên hiệu Càn Phù (Đường Hy Tông). Cao Biền trấn hải tiết độ sứ, tướng đàn áp
quân khởi nghĩa Hoàng Sào. Bài thơ này nói về việc đó.
Tạm dịch nghĩa
bài thơ này như sau:
Một vùng hồ đầm
(trạch) sông nược của quốc gia - vùng đất thấp trũng, chỉ vùng Giang Chiết lâm
vào cảnh binh đao. Những người dân lao khổ (dân đen) không còn cách nào để sống
được (Tiều: người nhất củi; Tô: người cắt cỏ, nhặt cỏ thuê). Xin anh chớ nói
việc phong hầu, công danh làm gì, việc đó thật đáng sợ, vì đó là tội ác. Một
tướng công thành danh toại phải đổi hang vạn sinh mạng của binh lính..
Tạm dịch bài thơ
trên:
Một giải giang hồ loạn chiến
tranh
Dân nghèo nào được sống yên
bình
Xinh anh đừng nói phong hầu
nữa
Vạn đống xương khô một tướng
thành.
Thế mới biết người xưa có cái nhìn và quan niệm sống thật sâu sắc.
Không phải cứ lập công lớn mà hạnh phúc. Có công lớn đó, công đó phải đổi hang
vạn sinh mạng của những người vô tội, làm sao những người có nhân cách không
trăn trở chứ chưa nói gì tới những bậc nhân văn. Vì thế mà đã khước từ vinh
quang, khước từ vinh hoa phú quý. Bài thơ có tính nhân văn rất cao, vượt qua
mọi thời đại, tác giả của bài thơ là bậc nhân văn cao hơn nữa.
Nguồn "Đất Nhân văn"







0 nhận xét:
Đăng nhận xét