CUỐN THEO DÒNG NƯỚC

Ông Phương chậm chạp khêu to ngọn đèn dầu. Trong gian nhà mờ mờ hiện ra: chiếc tủ gỗ, trên nóc tủ có bát hương thờ gia tiên, nén nhang vừa cháy hết, bộ bàn ghế gỗ tạp kê giữa nhà kiêm nhiều chức năng: bàn ăn, bàn nước, bàn viết… Góc nhà là giường ngủ buông màn. Vợ và con gái đang ngon giấc. Ông Phương đảo mắt quanh nhà, dừng lại nhìn xoáy vào đốm sáng ngọn đèn... Ngoài trời, màn đêm bao phủ, gió lùa qua khe cửa, ánh đèn chốc lại loé sáng. Và, ông ngồi bất động, mắt không rời điểm sáng ấy.
Vào tuổi này, đêm ít ngủ, ông hay thức giấc khêu to ngọn đèn, không phải để châm đóm hút thuốc lào (ông bỏ thuốc lâu rồi). Ông ngồi một mình nhìn ngọn đèn phát ra cái thứ ánh sáng lờ mờ đủ để thấy những gì quanh ông đang hiện hữu trong cái gian nhà nhỏ bé này.

Gần sáng rồi. Bọn chuột đi ăn đêm đã kéo nhau về, chí chóe trên mái nhà. Không mèo, chuột làm giặc.

Được nghỉ lễ, bắc cầu qua chủ nhật, con gái đang học Đại học năm thứ nhất, tranh thủ về thăm nhà. Nghĩ mà thương con. Về đến nhà là xắn ống quần ra đồng cùng mẹ. Nó thương cha mẹ vất vả, thiệt thòi. Bố mẹ thì nghĩ nhịn ăn nhịn mặc lo cho con ăn học cũng là cách đầu tư lâu dài thoát nghèo.

Mai, con trở về trường. Đầu năm học bán đi tạ lợn hơi. Tháng này bán vài tạ thóc cộng đàn gà nở tháng trước dồn tiền cho con. Ông biết mỗi lần nhận tiền từ tay mẹ, nghe mẹ dặn: “Cầm tạm, rồi mẹ gửi thêm”, mắt nó rơm rớm. Ông động viên con: “Học hành vất vả, đừng dè sẻn quá mà ốm đấy!”. Thi đỗ cả ba nguyện vọng, nó chọn Sư phạm, đỡ phần đóng góp, ra trường dễ xin việc, có thể được gần nhà. Còn vì sao nữa. Bố mẹ ít chữ, vả lại cũng không nên bắt con chọn ngành theo ý mình. Nó tự định hướng cho nó, tự nó thúc giục phải học Đại học như một phần báo ân cha mẹ một đời khổ vì đói nghèo, khổ vì chiến tranh. Phải học để thoát ra khỏi luỹ tre làng này đất chật người đông, ruộng nương không đẻ, người cứ chồng lên nhau theo năm tháng.

Ông thương con gái một. Nó là bản sao của mẹ nó - từ dáng người, khuôn mặt, đến giọng nói. Vì vậy ông càng yêu con, chăm lo cho con học hành. Đáp lại, chẳng những nó chăm học, học giỏi mà chăm làm không kém. Ngoài giờ đến trường, bèo cám, lợn, gà, tinh quân mọi việc. Con gái thời nay mà chỉ độc bộ áo quần lành lặn mặc khi đi học. Mẹ thương, nhiều lần động viên nó: “Dịp này dành tiền bán đàn gà, sắm cho con cái áo rét hàng hiệu”. Nó cười: “Mẹ cũng biết hàng hiệu cơ à? Nhưng mẹ có biết bao nhiêu tiền? Cả triệu đấy!”. Nói rồi, nó nhích sát mẹ “Ấm là được. Ước gì con được ôm mẹ mãi thế này”.

Hai mươi năm đã trôi qua. Ông Phương nhớ lại… Sáng hôm ấy mưa như trút nước, lũ rừng đổ về. Qúa trưa, cánh đồng Chanh đã mênh mông nước. Vác chiếc vó ra bờ sông kiếm con cá. Nước cuồn cuộn, đỏ ngầu, cuốn từng mảng bèo trôi vèo vèo. Trước mắt Phương là một mảng bè nứa bồng bềnh bám đầy rong rêu. Hình như có người? Phương quẳng vó bên bờ sông, nhảy xuống nước, nhoài bơi ra, đạp nước leo lên mảng bè. Một cô gái tóc rũ rượi, hai tay cấu chặt vào thân cây. May quá, mảng bè dạt vào chân cầu, khựng lại. Phương, một tay ôm ngang hông cô gái, tay kia gỡ cô khỏi thân cây. Anh lao lên bờ…

Đặt cô gái trên nền đất, nới lỏng thắt lưng, nịt ngực. Mặt cô tái nhợt. Phương áp môi thổi ngạt, làm hô hấp nhân tạo. Nhanh, chuẩn xác, kiên trì, lát sau cơ bắp, gân cốt cô gái khẽ nhúc nhích, làn da ấm dần, sắc mặt hồng dần, môi khẽ mấp máy. Cô gái từ từ mở mắt. Thấy người đàn ông lạ trước mặt, cô thu mình ngồi dậy, bối rối nhìn xung quanh. Cô xưng tên mình là Phong. “Làm sao bây giờ?” Cả hai người đều ướt sũng nước, áo quần bó sát da thịt. Phương thật sự bối rối… “Phải tìm thứ gì còn khô trong hốc cây, hẻm núi, chụm đốt”. Phương lao đi. Cô gái vấn tạm tóc lên đầu, túm từng tí vải dính trên thân mình cố vắt kiệt nước, nhanh tay giũ giũ cho mau khô. Lửa nhen lên, khói bay ấm khoảng không gian nhỏ bé, yên tĩnh.

Cô gái theo Phương vào làng. Bà con hàng xóm chạy đến an ủi cô, giúp cô tấm áo thay tạm.

Sớm hôm sau, Phương đưa cô gái ngược sông suối tìm về nhà Phong. Mọi dấu tích của một thôn bản đều đã biến mất. Cơn mưa rừng trút xuống, ngọn nước ào ào thác đổ thành lũ quét, cuốn đi tất cả. Một vài người sống sót như cô, cũng đang tìm kiếm. Họ nén từng cơn nấc, nuốt nước mắt vào trong. Họ đã gào khóc mấy ngày rồi.

Phương im lặng theo từng bước chân cô gái. Tìm lời động viên cô ư? Biết nói gì khi cô gái vừa khóc gào vừa cào bới, xới tung mặt đất. Đất đá tung lên hoẵm sâu xuống thành hang thành hốc, xoáy vào tim gan con người. Mọi dấu vết của sự sống không còn, tất cả đã cuốn theo dòng nước. Phong gào khóc gọi cha gọi mẹ! Không một tiếng trả lời, chỉ có gió và những tiếng khóc của người sống sót đào bới, tìm kiếm. Phương phát hiện đôi bàn tay nhỏ bé của cô gái máu chảy thấm đỏ đất: “Máu. Tay em chảy máu rồi!”. “Không! Mẹ em đâu? Cha em đâu? Giường cha mẹ em chỗ này đây. Mẹ ơi! Cha ơi! Con về tìm cha mẹ mà cha mẹ vội đi đâu? Trời đất ơi là trời đất”

Tiếng khóc gào của cô gái hòa cùng tiếng gào khóc của một người đàn ông bên cạnh: “Sao không bắt tôi chết cùng với cha mẹ, vợ con mà để tôi sống. Trời phạt tôi đây! Tôi biết làm sao bây giờ?” Tiếng gào khóc vang trời xanh, người đàn ông hết hơi kiệt sức ngồi bệt xuống giữa tan hoang. Phương đỡ cô gái đứng lên, dìu cô đi trong hoang tàn.

Phong được đi học hết lớp 7, biết vì sao có cơ cảnh này. Do phá rừng, làm nương rẫy. Rừng hết cây cối cản nước. Khi mưa, nước ào ào tràn xuống thành thác cuốn đi tất cả. Thiên nhiên trừng phạt con người. Nhưng không chặt củi, hạ cây, lấy gì đun nấu, lấy đất đâu làm nương trồng cây ngô cây lúa, lo cho cuộc sống được bữa sáng mất bữa tối. Cái vòng luẩn quẩn ấy lặp đi lặp lại ngày một nặng nề hơn, tai ác hơn.

Nghe lời Phương, vả lại còn biết đi đâu… Cô về xuôi cùng anh.

Phong được con gái dì của Phương đón về ở cho có bạn. Được hai ngày, ông chú rể xăm xăm sang nhà Phương “Mày dẫn con ma rừng về, đổ vấy sang nhà tao à?”. Ông vung tay, sặc sụa mùi rượu quát mắng thằng cháu. Bà Phương (gọi theo tên con) giảng giải một hồi “Nghĩ để nó sang bên ấy có bạn cùng trang lứa cho vui, nhưng chú không đồng ý, lại sợ nọ sợ kia thì để tôi sang đón cháu về nhà tôi”

Gia đình ông bà Phương có thêm thành viên mới - năm ấy Phong tròn 17 tuổi. Có cô gái lạ trong nhà, những ngày đầu, kiếm cớ bận họp hành, khuya Phương mới về nhà. Sớm hôm sau, ăn sáng qua loa, lại đi họp!

Rồi một đêm, không sao ngủ được Phương thức giấc. Anh bật diêm, thắp ngọn đèn dầu ngồi nghe đêm nói thì thầm, nhìn ngọn đèn cháy le lói. Hình ảnh Phong nhợt nhạt, đường cong con gái cứ chập chờn trong ánh đèn khuya. Phương ngồi nhìn ngọn đèn và lắng nghe hơi thở đều đều của cô gái từ buồng trong vọng ra, bỗng giật mình gà đã gáy sáng. Ngọn đèn chập chờn và anh thức trọn đêm.

Khi Phong tròn mười tám, thấy Phong tốt nết, đẹp người và xem ra con trai cũng yêu quý cô em. Bố mẹ bàn với họ hàng làm lễ cưới cho hai đứa. Lần đầu tiên làng có đám cưới như vậy. Mấy cô gái nói: “Chị Phong sướng nhất đấy. Rước dâu từ nhà mình về nhà mình”.

Cô gái miền ngược về làm dâu làng đồng chiêm trũng với bao điều lạ lẫm. Những đêm bàng bạc trăng soi, ánh hoa lục bình lấp loáng, dăm ba cây nêu đèn treo mờ đục, thỉnh thoảng điểm vào đêm vài ba tiếng vạc mồi chát chúa. Xa xa kia trên dòng sông một giọng hò của anh chân sào vọng vào sườn núi khuấy động mây trời. Và một lời ru, một câu lảy Kiều, một nhịp trống phách từ khoang đò dọc thẳm vào sông núi, đọng tâm can con người.

Chiều chiều, những cô bé “tuổi hoa” tụt hết áo quần giấu vào gốc si vươn cành thả rễ xuống nước và gốc cây gạo to mấy vòng ôm, ào xuống ao hồ nô đùa thỏa thích, bơi mỏi thì lên bờ đu rễ si, đánh võng đón những bông hoa gạo như chùm lửa từ ngọn cây rơi xuống… Những bà mẹ đồng chiêm quanh năm dãi gió dầm sương đánh vật với sông nước sinh ra những đứa trẻ, trong những đứa trẻ ấy có anh hùng, tướng tá, tiến sĩ, giáo sư.

Làng của Phương đất chật người đông. Ruộng đất tập trung vào một số nhà giầu. Người nghèo, ai có nghề mộc, nề đi làm thuê ăn cơm thiên hạ. Ai không nghề thì cày thuê cuốc mướn. Nhiều người rủ nhau đi gánh thuê hàng sang Lào. Phụ nữ, năm một vụ cấy gặt. Lúc nông nhàn quay sợi dệt vải, nuôi tằm dệt lụa. Họ bám vào bãi phù sa trồng bông, trồng dâu. Nghề phụ chăn tằm dệt vải. Công nghệ dệt vải từ A đến Z. Trồng bông, cung bông, xe cúi, kéo sợi, guồng lọn, hồ cơm đập vò, phơi khô, đánh ống, vào go, nhể bìa, mắc cửi, đánh suốt tra thoi, dệt thành tấm.

Dệt nái cũng bắt đầu từ ươm kén, chăn tằm, rút sợi, quay xa, vào go, mắc cửi, dệt thành tấm. Làm tơ tằm thì vất vả hơn “Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”. Người phụ nữ ngồi vào khung cửi tay lao thoi, dập văng theo nhịp chân đạp, đôi mắt tinh nhanh phát hiện sợi dọc đứt phải nối ngay.Vải và nái của làng còn là sản phẩm thô, khổ hẹp. Phần lớn tự cung tự cấp. Vải vuông qua khâu nhuộm nâu để may áo quần.Vải để may váy thâm phụ nữ cũng nhuộm nâu sau đó căng ra nắng trát lên mặt vải lớp bùn ao, phơi khô, giặt kĩ và giữ mầu bằng nước lá trầu không, hoặc lá bàng. Nái là sản phẩm hiếm chỉ nhà giầu dùng may váy, may yếm, bao thắt lưng cho các bà; may áo cho các ông có chức sắc. Nhiều gia đình sống bằng nghề dệt thủ công. Con gái không chân lấm tay bùn, nên da trắng như trứng gà bóc. Cô nào cũng xinh đẹp. Các cô thi nhau từng công đoạn. Các gia đình có con trai theo đó mà chọn con dâu.

Phong về làm dâu làng, nghe người già kể chuyện làng như nghe truyện cổ tích vậy.

Năm sau, bố ốm, rồi ra đi. Năm sau nữa mẹ anh cũng theo cụ ông về với tiên tổ. Dẫu biết rằng hai cụ đã ở tuổi ngoại thất thập, thuộc hàng thọ ở làng. Nhưng ông chú rể mượn rượu nói bừa Phương đưa con ma rừng về nhà nên mới nên cơ sự này. Phương không tin nhưng buồn lắm. Vợ chồng tự nhắc phải ăn ở tốt với nhau, với mọi người. Đấy là cách tốt nhất để chứng minh Phong không phải là con ma rừng.

Chồng trúng đảng uỷ viên, được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Công việc bận rộn suốt ngày. Vợ mới sinh, nhà càng thêm bấn. Người làng này có lệ vợ ở cữ thì mẹ vợ, em vợ đến giúp. Phong không có ai, may có sức khỏe, mọi việc tự lo liệu. Khi con chập chững biết đi, Phong bàn với chồng:

- Chỉ trông vào công điểm hợp tác thì nhà mình chẳng thể giàu lên được…

- Anh hiểu em muốn nói gì rồi. Nhưng mọi người đều như vậy.

- Cứ đà này xã viên bỏ ruộng đi buôn hết. Anh nghĩ có cách gì…

- Còn có cách gì. Mình đang xây dựng xã hội sống theo chủ nghĩa tập thể. Phải làm theo nghị quyết tập thể. Trên bảo vậy, mình phải theo.

- Hay là thế này. Anh nghe xem có được không.

Phương ngồi nghe vợ nói: “Hồi nhỏ em đã biết kéo sợi dệt vải. Mẹ dạy em mà. Cả bản biết dệt may. Em liên hệ với trên xin mở một tổ kéo sợi xe len, làm gia công để tăng thu nhập”. Hai vợ chồng bàn đi tính lại.

Phương đưa vấn đề đảng uỷ thảo luận, ra nghị quyết. Phong đứng ra lập tổ kéo len. Cứ một cân sợi được trả công 4 cân gạo. Thu nhập gấp cả chục lần ngày công làm điểm. Nhà nào cũng khá lên, mua sắm được nhiều vật dụng gia đình. Ai cũng gọi Phong là bà Giám đốc. Bà Giám đốc lo công ăn việc làm cho xã viên. Tính tình bà cởi mở, công xá thanh toán minh bạch, sòng phẳng, bà con càng thêm yêu quý. Đùng một cái hợp đồng bị cắt, nghe đâu do Liên Xô tan rã. Xã viên ngao ngán.

Phương đã đảm nhận cương vị Chủ tịch xã. Anh tâm sự cùng vợ: “Nếu chỉ làm thuê, chẳng chủ động được công việc”. Tưởng chồng kháy mình, Phong bảo “Giỏi anh làm ông chủ xem sao.”. “Thì anh đang là Chủ tịch. Không cha chung nữa. Anh sẽ giao ruộng cho các hộ, thu hoạch bao nhiêu ăn bấy nhiêu sau khi làm nghĩa vụ nộp sản cho Nhà nước”. Phong đọc báo, thấy người ta phê “khoán sản” dữ lắm, “Làm vậy là phục hồi tư hữu đi theo con đường tư bản”. “Kể cũng khó nhưng có nơi xé rào rồi. Cứ nhắm mắt theo mấy ông giáo điều, dân mình chết đói là chắc, phải xé rào em ạ.”

Anh mang chuyện này bàn trong lãnh đạo xã, được dân ủng hộ. Ai cũng phấn khởi, hồ hởi nhận ruộng khoán. Vụ mùa năm ấy, xã này không một ai bỏ ruộng đi buôn. Cót thóc nhà nào cũng đầy có ngọn.

Đùng một cái, Chủ tịch Phương bị mời lên huyện làm kiểm điểm. Anh ngồi trước trang giấy, không biết mình mắc khuyết điểm gì. Chẳng lẽ được mùa, thu nhập của dân tăng lên là có tội. Đảng lãnh đạo mà để dân đói thì lãnh đạo cái gì? Mang thực tế cuộc sống nơi đồng ruộng tranh luận với mấy ông bàn giấy giáo điều, quan liêu ư? Mắc thêm tội không thành khẩn trước Đảng. Phương moi óc viết ra tất cả những gì người ta đã dạy trong các đợt chỉnh huấn.

Rồi hết đoàn huyện về, lại đoàn tỉnh về. Họp thâu đêm. Ông trưởng ban tuyên bố hùng hồn rằng: “Chúng ta phải làm theo nghị quyết, phải tổ chức cho nông dân làm ăn tập thể. Nếu khoán đến hộ tức là thực hiện chế độ tư hữu, cần ngăn chặn ngay tư tưởng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Sau hai ngày có những lời phê phán ấy Phương bị cách chức Chủ tịch và khai trừ lưu Đảng.

Cầm hai Quyết định trong tay, ông Phương cất vào trong tủ. Thấy chồng buồn lắm mà không biết động viên anh thế nào. Mấy bà, mấy ông hàng xóm thì bảo “Người vì dân như anh Phương mà bị kỉ luật thì chẳng còn hiểu ai mới là tốt?”. Ông chú rể lại mượn rượu nói “Con ma rừng hại chồng nó đấy”.

Mặc ông ta nói, người làng này chỉ cười vào mũi ông già thời buổi này còn mê tín cuồng si vậy sao?

Ông Phương, đêm đêm ngồi nhìn ngọn đèn lúc mờ lúc tỏ. Con gái ông giờ đã là cô sinh viên Đại học. Ông tin con ông, lớp trí thức mới sẽ làm được nhiều việc hơn thế hệ ông. Trước hết nó không bị ảo ảnh của hào quang chiến thắng làm con người trở nên kiêu ngạo, luôn cho mình là nhất.

Bà Phong đi Hà Nội thăm con, tiếp tế cho con, cũng là một lần được biết Thủ đô. Nghe con nói đầu phố có hàng ăn ngon, chị bảo con đến thưởng thức. Hai mẹ con vừa ăn vừa chuyện. Bỗng chị nhìn vào gương lớn treo trên tường bóng người đàn bà gầy còm đến tiều tuy, hình như cụ Tuất, còn hình như gì nữa đúng cụ Tuất xã mình. Cụ đi ở với con cơ mà. Sao lại ngồi kia, chốc lại đến bàn ăn khách vừa đứng dậy trút hết thức ăn thừa mỗi thứ vào một túi. Chị Phong nghĩ chắc nhà con gần đâu đây, cụ thu đồ ăn thừa về nuôi lợn.

Nhưng không. Khi cửa hàng vãn khách, cụ Tuất ra gốc cây ngồi xuống cái rễ trồi lên, mở túi đồ thừa và bắt đầu ăn. Trời ơi! Phong thốt lên, nói với con gái: “Vậy mà mẹ tưởng cụ đi ở với con sung sướng lắm”.

Mẹ con chị chờ cụ ăn xong mới lại gần.

- Chào cụ! Cụ không nhận ra cháu?

- Có! Bà là vợ Chủ tịch xã. Tôi tưởng không ai nhận ra bà già tội nghiệp này, cố ý tránh, bà bỏ quá cho.

- Cơ sự nào đến nông nỗi này chứ. Mời cụ vào trong nhà hàng ngồi uống nước nói chuyện.

- Bà ơi, cơ sự à? Ông nhà tôi chết sớm để lại cho tôi ba đứa con…

Cụ Tuất đón cốc nước từ tay bé Lan, uống cạn rồi kể, chốc chốc lại kéo vạt áo lau nước mắt: “Ông nhà tôi mất đi, để lại cho tôi ba mụn con. Thằng lớn lấy vợ, ra thành phố buôn bán, con gái thứ đi lấy chồng làng bên, tôi ở cùng vợ chồng thằng út làm ruộng ở quê như bà và cháu thấy đấy. Được hai năm, vợ nó bảo: Bà ở với chúng con sao tiện. Vợ chồng bác Cả nhà cửa đề huề. Con cả phải nuôi mẹ già chứ. Thế rồi, chồng nó thuê xe đưa trả tôi cho anh cả. Ở với vợ chồng thằng cả chưa đầy năm, chúng nó nói cha chết đi để lại cơ ngơi nhà quê cho mẹ và vợ chồng chú ba. Có nhà mà mẹ không ở, làng nước người ta cười cho. Già này nghĩ hai thằng con trai đều đuổi mẹ, thôi thì đi ở với con gái. Là con gái, chắc nó thương mẹ hơn. Không ngờ chỉ được ba bảy hai mốt ngày ông con rể nói bà có hai con trai, nhà cửa đàng hoàng không ở, lại đi ở với con gái e ngược đời quá. Bà đến chơi dăm bữa nửa tháng chứ ở lâu dài thì không được đâu, trước hết họ hàng chê trách con trai bà, sau là cười bà đấy…”

Cụ Tuất nói liền một hơi và chỉ dừng khi cổ họng mắc nghẹn, cố nuốt nước mắt vào trong, nói tiếp: “Bà và cháu thấy đấy, cả ba đứa con đùn đẩy mẹ cho nhau, đứa nào cũng có lý. Chúng nó cho là phải, là đúng. Nhưng tất cả là do tôi. Tôi chỉ biết đẻ, biết nuôi chúng có lông có cánh mà không biết dạy để chúng thành người. Chúng không thương mẹ đẻ thì còn thương ai. Tôi đành đi ăn mày thiên hạ. Ăn thế này nhục lắm?”

Cuộc gặp bất ngờ này gieo vào lòng mẹ con Phong bao nỗi niềm. Hôm sau Phong tìm đến nơi tá túc của cụ. Đó là cái lều bỏ hoang của một tiểu thương nghỉ chợ. Chỗ người nghèo với nhau, thương cảm một bà già nhà quê cơ nhỡ, con cái bỏ rơi, bà tiểu thương kéo cụ Tuất về ở tạm. Nhìn nơi ở của một cụ già không khác cái ổ chó, Phong không đành lòng. Lúc khỏe đi xin có miếng ăn, còn lúc ốm trông vào đâu? Đời sao kẻ ăn không hết, người lần không ra! Bà Phong xin bà tiểu thương đưa cụ Tuất về quê.

Đưa cụ Tuất về lại quê, để các con cháu ấm lại tình mẫu tử. Phân tích cho những đứa con lỡ hất mẹ mang nặng đẻ đau ra đường ra chợ vậy là bất hiếu là tội lỗi? Phong tin rằng trong mỗi con người phần tốt chiếm gần trọn trái tim. Cứu một mạng người phúc đẳng hà sa.

Đến lượt ông Phương đi thăm con gái. Từ nhà trọ, ông bách bộ ra công viên hưởng không khí trong lành. Trên một ghế đá dưới tán cây là một cụ ông và một cụ bà. Họ ngồi sát nhau, dở rộng tờ báo, cụ ông đọc cụ bà cùng nghe. Cuộc sống thanh bình quá! Ông Phương tìm một chỗ ghế trống thả mình vào không gian thanh bình ấy. Nhìn ngắm công viên, hưởng làn gió mát.

Ở ghế đá kia. đứa con gái hở cả mông ngồi trong lòng ôm ghì thằng con trai. Ông Phương nhắm mắt lại thì nghe tiếng đàn bà: “Hai đứa ranh này, đây không phải là buồng ngủ nhá, xéo về nhà mà hôn nhau.”. Ông Phương quay lại nhìn rõ phù hiệu trường PTTH trên áo hai học sinh. Có lẽ, chúng cũng có lòng tự trọng, đứng dậy hòa vào đám đông trong công viên. Và, lạ quá sao con gái bây giờ mặc quần đùi chạy nhông trên phố dạo khắp công viên, phơi rốn trên ghế đá lắm thế nhỉ? Ở chốn linh thiêng, đền chùa chúng cũng quần đùi áo hai dây thắp hương vái lạy. Người đàn bà, gánh hàng trên vai, bán thập cẩm mặt hàng phục vụ tại chỗ khách công viên. Bà ngang qua các ghế đá mời chào đon đả. Bà quảy gánh hàng khuất xa dần, mụm áo vá của bà còn đọng mãi trong mắt ông Phương.

Trước mắt ông là cây, là hoa, là cảnh vật muôn hình vạn trạng. Ra công viên thấy hai cực giầu nghèo của xã hội đang song hành đối chọi nhau chan chát. Cũng như ở nhà quê, ra chợ để thấy mức sống của người dân. Ông Phương hình dung cái chợ quê đã nhiều thay đổi…

Mải suy nghĩ. Bỗng ông Phương thấy tối sầm mắt. Ông tựa lưng vào thành ghế đá, trấn tĩnh và bấm di động gọi con gái. Loáng sau Lan đến, kịp dìu bố lên xe chạy thẳng đến Bệnh viện.

Móc trong túi áo của bố lấy Giấy chứng minh, lục túi xách lấy tiền kẹp sau tờ gấy, Lan đến bàn Bác sĩ nói gì đó. Bác sĩ bảo dìu bố lại ông khám. Một hồi, bác sĩ hí hoáy kê đơn.

Cầm đơn thuốc, mồ hôi ướt trán, Lan dặn bố: “Bố ngồi tạm đây, ghế này thoáng, con đi mua thuốc”. “Bố không sao đâu” Ông Phương lục ví lấy tiền đưa con gái. Một bà có vẻ quê mùa, thì thào vào tai ông Phương: “Vào đây qua mỗi khâu là mỗi phong bì, dày mỏng tùy mức quan trọng. Đến như tiêm cũng phải lót phong bì thì mũi tiêm mới không đau”. Ông Phương buông tiếng thở dài, nghĩ bà này là “cò chỉ trỏ”.

Con gái cầm một túi thuốc vừa mua, ngồi thở. Nghe chuyện bố thuật lại, nó bảo: “Đúng vậy đấy bố ạ. Lúc nãy con cũng phải kẹp tiền dưới giấy, ông ta mới cho khám, không thì ông ta hạch không đúng tuyến”. Ông Phương lại thở dài: “Còn vậy nữa sao?”. Bệnh viện người đông hơn chợ. Bệnh nhân một, người nhà hai ba. Chen chúc, xô bồ, ngồi nằm la liệt trên giường, dưới sàn, choán ra cả hành lang. Chả bù cho Bệnh viện Huyện, Tỉnh chả có mấy người đi khám!

Hai bố con về nhà trọ.

Hôm sau con đi học, một mình ngồi trong mấy mét vuông phòng trọ học của con, ông Phương thấy buồn, viết mấy chữ “Bố ra công viên dạo mát”.

Đến công viên vẫn cái ghế đá hôm trước, ông ngồi đây mà chuyện trong bệnh viện vẫn trong đầu. Nào chen chúc, nào “cò bệnh viện”, và thái độ vô cảm của ông thầy thuốc. Người bệnh khổ. Bác sĩ cũng chẳng sướng gì. Giá như - ông Phương nghĩ - cứ trả lương cao cho thầy thuốc, họ sống, vợ con họ sống chắc không có tiêu cực “phong bì”. Mải suy nghĩ thì một ông già thong thả bước đến: “Tôi ngồi cùng ông. Được không?”. “Vâng. Ông ngồi đây cho vui.” Hai người làm quen. Chốc đã như hai bạn già thân thiết. Chuyện thời tiết đỏng đảnh. Chuyện Hà Nội tắc đường chuyển sang chuyện thời cuộc lúc nào không biết.

Ông khách nói:

- Thế hệ mình làm được nhiều, nhưng cũng hỏng không ít việc.

- Thí dụ - ông Phương gợi.

- Đánh giặc tuyệt vời, cả thế giới khâm phục. Nhưng tham nhũng đã thành căn bệnh trầm kha chưa có thuốc trị - Ông dẫn chứng chi tiết các vụ quan tham hà hiếp dân.

- Trên có biết không? - Ông Phương hỏi.

- Biết rõ là đằng khác. “Nhưng nếu kỉ luật hết lấy ai làm việc!” Kẻ tham nhũng không sợ. Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng hoành hành ngang nhiên, kinh hãi đến thế.

Ông Phương nghe thấy lạ, liền hỏi giật giọng:

- Ai là giặc nội xâm?

- Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất là tập đoàn Vinashin - đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Đã có bao nhiêu tập đoàn cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Theo kiểm toán nhà nước, một năm các tập đoàn kinh tế - đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là lao động lãnh đạo mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa tham nhũng vừa chống tham nhũng? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?

Ông Phương bóp trán, thong thả đáp:

- Cũng khó

- Này nhé, đất đai là khâu đẻ ra tham nhũng nhiều nhất phải không? Nhà nước có quyền thu hồi đất. “Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng… không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng.” Nghị định Chính phủ đã ghi như vậy. Rõ ràng là quan chức thấy món lợi kếch sù do thu hồi đất, họ chạy đua dự án xây sân gôn, địa ốc, khu du lịch… Dự án nở rộ như nấm sau mưa. Phần thua thiệt dồn lên đầu nông dân. “Tấc đất tấc vàng” giờ chuyển từ tay nông dân sang tay các nhà đầu tư.

Đồng tiền bé tí được đền bù dĩ nhiên không thể giúp nông dân cải thiện cuộc sống. Có tiền, nhiều người mua sắm những tiện nghi lâu nay họ thèm khát. Thậm chí họ sắm cả những đồ xa xỉ. Họ không biết xoay xở trong vòng xoáy thị trường mà họ luôn là người thua thiệt, ít được bảo vệ. Ông nhìn kìa, những người tìm vào công viên bán hàng, họ từ làng quê dạt ra cả đấy.

- Không còn ruộng đất canh tác, thanh niên trẻ có thể học một cái nghề để làm công nhân. Nhưng ở nông thôn đa phần là người nhiều tuổi, có nghề ngỗng gì đâu, ăn hết tiền đền bù, không ruộng làm gì ra tiền để sống. Họ tìm lên thành phố. Bán hàng rong, làm cửu vạn, đi ở làm người giúp việc (ta quen gọi là “Ô Sin”), rửa bát trong quán ăn.. Trẻ đẹp vào nhà hàng, quán ba rồi bị “đĩ hóa”.

- Họ phải sống. Cha mẹ già, con cái họ phải sống. Người nông dân không sống được trên quê hương mình, nên phải đi tìm cái sống như vậy đó. Họ ra thành phố, chịu sống chui rúc trong quán trọ thiếu thốn mọi thứ, cốt sao giành chút tiền nuôi cha mẹ già, nghĩa hiếu của những người làm con. Và, hơn hết là nuôi con ăn học, hy vọng con cái có cái chữ để thoát nghèo.

Ông khách tiếp tục phân tích

- Trưởng giả thừa tiền cần làm sang, cần giải trí đã có các chân dài được họ đào tạo từ nhà hàng, gọi là có ngay. Các quan tham đang bần cùng họ, truỵ lạc họ, dưới những khẩu hiệu rất mĩ miều. Đạo đức xã hội tha hóa, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh chơi gái vị thành niên. Một sinh viên từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ… Cứ đà này, dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?

Nghe ông khách thuyết trình, ông Phương thấy nóng bừng mặt, đáp lại:

- Ông quá lo xa. Tình hình không đến mức đen như vậy. Tôi có thể kể hàng ngàn hàng vạn gương sáng, ta cùng nghe.

Ông khách vẫn thao thao như đang đọc báo:

- Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí chưa có bằng tốt nghiệp cấp hai vẫn lấy được học vị tiến sĩ.

Ông Phương chen ngang, phản bác thẳng thừng:

- Ông chỉ thấy khoảng đen, không thấy khoảng sáng. Mà khoảng sáng là cơ bản là chủ đạo của xã hội ta. Giáo dục có vấn đề, nhưng thành tựu là rất lớn. Kinh tế ta chưa giầu, nhưng dân không đói rách. Nông dân chúng tôi rất thực lòng, có sao nói vậy. Đời sống hiện nay sướng gấp trăm lần khi xưa. Được no ấm rồi, mỗi khi nghĩ lại thấy thương cha mẹ mình, ông bà mình cơm độn rau má cám đồ khoai sắn qua ngày. Mặc rách rưới vá chằng vá đụp. Bây giờ không còn cảnh ấy. Nhờ cách mạng, nhờ đổi mới, nhờ hội nhập phải không ông?

Bỗng chuông điện thoại nổ trong túi áo, ông Phương đưa lên tai nghe: “A lô, bố đang ở đâu? Trưa rồi, bố về ăn cơm”. “Ờ ờ, bố về ngay đây!”

- Con gái tôi đấy. Cháu là sinh viên Sư phạm. Chúng ta tạm dừng ở đây. Có dịp gặp lại nhau, tôi và ông đàm luận tiếp.

Nói rồi, ông Phương ra khỏi công viên, để lại sau lưng lời ông bạn “Vâng! Mừng cho ông. Còn nhiều việc chắc rằng con cháu của chúng ta sẽ sửa chữa những sai lầm của thế hệ chúng ta… Mà sai lầm lớn nhất là chính sách ruộng đất. Cải cách ruộng đất sai. Thu hồi đất, cưỡng chế một cách độc đoán làm thiệt hại quyền lợi chính đáng của nông dân”

Ông Phương lên xe rồi còn ngoái cổ ra ngoài cửa xe, trả lời: “Đó là trách nhiệm của mọi người Việt Nam, của mọi thế hệ. Lấy trường hợp ông Bí thư tỉnh uỷ Kim Ngọc làm ví dụ. Chính những người kỷ luật ông nay truy tặng ông huân chương Độc lập. Có thể dẫn ra rất nhiều nữa. Nhận thức và thực tiễn mà ông… Trước mặt chúng ta là hai dòng nước. Dòng nước xuôi chúng ta đang theo, dòng nước ngược chúng ta quyết chống”.

Xe dừng. Ông bấm máy gọi con ra đón, bỗng giật mình bừng tỉnh. Trước mặt ông là vợ. Hóa ra, vào bến ông Phương không lên xe búyt mà nhắm mắt theo lơ đẩy lên xe khách về quê. Suốt hai giờ đồng hồ ngồi trên xe khách ông vẫn bức xúc một mình tranh luận với cái ông bạn vừa quen chưa kịp hỏi tên trong công viên…

Trao xe máy cho chồng, bà Phong nhìn chồng vẻ âu yếm rồi nhẹ nhàng ngồi lên gác ba ga phía sau lưng chồng mà thấy buồn cười cái tính mê tranh luận đến quên mọi chuyện của chồng. Xe bon bon chạy về làng. Con đường quê chứng kiến bao đổi thay của quê hương đang xây dựng nông thôn mới.

Bà Phong hồi tưởng, từ ngày bị cuốn theo dòng nước, như con ma rừng được Phương cứu vớt về làm vợ anh đã hai chục năm có lẻ. Mặt đất này bao nhiêu cơn lũ quét, cuốn theo bao số phận, kể cả hàng triệu mạng sống con người, mấy ai được may mắn như bà?


  • Digg
  • Del.icio.us
  • StumbleUpon
  • Reddit
  • RSS

0 nhận xét:

Đăng nhận xét